Khi đề cập
đến vật lý hạt nhân, chúng ta thường nghĩ đến những ứng dụng sử dụng năng lượng
toả ra từ các phản ứng hạt nhân hay công thức E = mc2 nổi tiếng. Tuy nhiên, vật lý hạt nhân còn có rất
nhiều ứng dụng khác trong khoa học công nghệ (ví dụ như nghiên cứu cấu trúc vật
liệu, kiểm tra không hủy mẫu) và đời sống xã hội (ví dụ như xạ trị và chẩn đoán
hình ảnh trong y học, chiếu xạ trong công nghệ bảo quản thực phẩm). Bên cạnh
những ứng dụng, ngành khoa học cơ bản nghiên cứu về hạt nhân nguyên tử từ lâu
đã mở rộng đối tượng nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Cho
đến ngày nay, trong lĩnh vực này vẫn còn những đối tượng nghiên cứu quan trọng liên quan đến hai ngành
vật lý hiện đại đang rất được quan tâm như vật lý hạt cơ bản (các quá trình
phân rã, tương tác trong vật lý hạt nhân liên quan đến tương tác mạnh, yếu và
điện từ trong Mô hình Chuẩn) và vật lý thiên văn (sự hình thành các nguyên tố
trong vũ trụ, sao neutron,...).
Trong sự tỏa
sáng của các ngôi sao và quá trình hình thành các nguyên tố trong vũ trụ từ
helium đến uranium thường hiện diện các phản ứng hạt nhân bắt hạt-phát gamma.
Đây là một trong những đối tượng nghiên cứu quan trọng của vật lý hạt nhân
trong vật lý thiên văn (nuclear physics in astrophysics) mà ngày nay đã trở
thành một liên ngành thu hút rất nhiều nhân lực và tài lực trên thế giới với
tên gọi vật lý hạt nhân-thiên văn (nuclear-astrophysics).
Như đã đề
cập, đặc điểm phức tạp của các phản ứng bắt hạt-phát gamma trong các ngôi sao
là năng lượng của các hạt bị bắt rất thấp, trong vùng vài trăm electron volt (1
electron volt là năng lượng chuyển động của một hạt electron khi được gia tốc
trong một điện trường có hiệu điện thế 1 volt, ký hiệu là eV). Đối với thực nghiệm,
việc nghiên cứu, mô phỏng quá trình trong các ngôi sao rất khó vì phản ứng xảy
ra rất chậm do xác suất vô cùng bé. Như đã biết tuổi đời của các ngôi sao là
hàng tỷ năm, cho thấy các quá trình xảy ra bên trong một ngôi sao là vô cùng
chậm.
Đối với các nghiên
cứu lý thuyết, vấn đề cũng rất phức tạp. Thang năng lượng của vật lý hạt nhân
là từ hàng triệu eV (MeV) cho đến một vài tỷ eV (GeV) và các mô hình lý thuyết
được xây dựng cho vùng này. Chính vì thế, không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế
giới, vấn đề nghiên cứu này thường được tiếp cận bằng những mô hình lý thuyết
cổ điển và đơn giản với mục tiêu cung cấp số liệu đầu vào tương đối cho vật lý
thiên văn. Độ tin cậy của các tính toán như vậy tất nhiên là có những hạn chế.
Điều này trái ngược với những thành tựu và nỗ lực của các nhà khoa học trong
lĩnh vực vật lý hạt nhân trong việc xây dựng những mô hình lý thuyết, tính toán
đáng tin cậy, độ chính xác cao trong hơn 60 năm qua (tính từ những năm 1960 khi
những nghiên cứu đầu tiên về cấu trúc và phản ứng hạt nhân bắt đầu được xây
dựng từ tương tác giữa các hạt cấu tạo nên hạt nhân- proton và neutron). Ngày
nay những mô hình lý thuyết tính toán trong vật lý hạt nhân thường được mô tả
với những thuật ngữ như từ những nguyên
lý ban đầu (ab initio), đạt đến tầm nghệ
thuật (state-of-the-art),.... Vì vậy, nghiên cứu các phản ứng bắt hạt-phát gamma tại năng
lượng thiên văn hạt nhân với những cách tiếp cận hiện đại là hướng nghiên cứu
quan trọng của nhiều nhóm vật lý hạt nhân lý thuyết và thực nghiệm trên thế
giới.
Số liệu vật
lý hạt nhân thiên văn đã được nhiều nhóm nghiên cứu thu thập từ các nghiên cứu
thực nghiệm trong nhiều năm. Các kết quả được tổng hợp trên cơ sở dữ liệu được
quản lý bởi Cơ quan Năng lượng quốc tế (IAEA) và Trung tâm Dữ liệu Quốc gia
NNDC (Hoa Kỳ). Trong cơ sở dữ liệu đó, tập hợp số liệu đầu tiên về các phản ứng
hạt nhân trong thiên văn được thực hiện bởi nhóm Caltech (năm 1988) [1], sau đó
là nghiên cứu các phản ứng tổng hợp hạt nhân sau Big Bang (năm 2004) [2] và các
phản ứng nhiệt hạch trong Mặt Trời (năm 2011) [3], và không thể không nhắc tới
các công trình của nhóm NACRE [4, 5]. Tuy nhiên, các số liệu đã thu thập của
phản ứng bắt hạt-phát gamma đến nay vẫn cho thấy còn có sự sai khác đáng kể. Do
vậy bên cạnh các nghiên cứu thực nghiệm, các nghiên cứu lý thuyết với nhiều mô
hình khác nhau đã được sử dụng để tính toán tiết diện các phản ứng tại năng
lượng thấp [6, 7].
Tại Việt Nam,
trong bài viết của PGS.TS. Phạm Đức Khuê về triển vọng nghiên cứu thiên văn hạt
nhân sử dụng máy gia tốc Pelletron 5SDH-2 tại Trường KHTN - ĐHQG Hà Nội đã cho
thấy tầm quan trọng và sự ảnh hưởng không nhỏ của việc đo tiết diện các phản
ứng thiên văn hạt nhân [8]. Ngoài ra, nhóm PGS.TS. Nguyễn Quang Hưng ở Đại học
Duy Tân, Đà Nẵng nghiên cứu cả lý thuyết và thực nghiệm (sử dụng số liệu từ lò
phản ứng hạt nhân nghiên cứu tại Tp. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng) các vấn đề quan
trọng trong các nghiên cứu về cấu trúc hạt nhân, phản ứng hạt nhân nhắm đến mục
tiêu là các quá trình liên quan tới vật lý hạt nhân thiên văn [9]. Tuy nhiên, các
công bố quốc tế về nghiên cứu vật lý hạt nhân nói chung và thiên văn hạt nhân
nói riêng tại Việt Nam rất hạn chế trong rất nhiều năm qua. Trong nước hiện nay
chỉ có nhóm nghiên cứu của GS.TS. Đào Tiến Khoa tại Viện Khoa học và Kỹ Thuật
Hạt nhân, Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam có những công bố quốc tế uy tín về
phản ứng hạt nhân.
Cuối cùng đề
tài nghiên cứu có thể ứng dụng trong dạy và học môn vật lý nói chung và vật lý
hạt nhân nói riêng cho chương trình đại học và sau đại học tại Việt Nam. Thực
tế rất dễ nhận thấy vật lý hạt nhân tại các trường đại học ở Việt Nam trong 30
năm qua chỉ dừng lại với những kỹ thuật ghi nhận và đo đạc bức xạ hạt nhân. Các
chuyên gia, các công bố quốc tế uy tín trong lĩnh vực vật lý hạt nhân của các
trường đại học gần như không đáng kể. Lưu ý rằng nhóm của GS. Đào Tiến Khoa gần
như tách biệt khỏi việc đào tạo, nghiên cứu của các trường đại học. Rất ít sinh
viên, nghiên cứu viên có điều kiện tiếp xúc với nhóm nghiên cứu của GS. Khoa
hoặc PGS. Hưng tại Đại học Duy Tân (nơi không có ngành vật lý). Phần lớn giáo
trình vật lý hạt nhân hiện nay vẫn được dịch từ sách về vật lý hạt nhân của
những năm 1950. Đây là vấn đề rất cần thiết và cấp bách cho một ngành nghiên
cứu có nhiều ứng dụng trong đời sống nhưng đồng thời cũng là một ngành khoa học
cơ bản rất sôi nổi trên thế giới. Thật sai lầm khi một cử nhân (hoặc hơn thế)
chuyên ngành vật lý hạt nhân bị biến thành một kỹ thuật viên ghi đo bức xạ.
Nhưng đó là thực tế đào tạo khó chối cãi ở các trường đại học có đào tạo vật lý
hạt nhân ở Việt Nam hiện nay. Một giải pháp khả thi là phát triển những nhóm
nghiên cứu có khả năng hợp tác với các nhóm nghiên cứu nước ngoài bên trong các
trường đại học. Đề tài nghiên cứu đang đề cập là một ví dụ cụ thể.
Nguyễn Lê Anh và Bùi Minh Lộc
Tài liệu tham khảo
[1] G.R.
Caughlan and W.A. Fowler (1988), “Thermonuclear reaction rates V”, Atomic
Data and Nuclear Data Tables 40(2), pp. 283–334.
[2] P.
Descouvemont, A. Adahchoura, C. Angulo, A. Coc, and E. Vangioni-Flamd (2004),
“Compilation and R-matrix analysis of Big Bang nuclear reaction rates”, Atomic
Data and Nuclear Data Tables 88(1), pp. 203–236.
[3] E.G.
Adelberger et al. (2011), “Solar fusion cross sections. II. The pp chain and
CNO cycles”, Reviews of Modern Physics 83, 195.
[4] C. Angulo
et al. (1999), “A compilation of charged-particle induced thermonuclear
reaction rates”, Nuclear Physics A 656(1), pp. 3-183.
[5] Y. Xu et
al. (2013), “NACRE II: an update of the NACRE compilation of
charged-particle-induced thermonuclear reaction rates for nuclei with mass
number A < 16”, Nuclear Physics A 918, pp. 61-169.
[6] J.T.
Huang, C.A. Bertulani, V. Guimares (2010), “Radiative capture of nucleons at
astrophysical energies with single-particle states”, Atomic Data and Nuclear
Data Tables 96(6), pp. 824–847.
[7] S.
Dubovichenko and A. Dzhazairov-Kakhramanov (2012), “Examination of the
astrophysical S-factors of the radiative proton capture on 2H, 6Li,
7Li, 12C and 13C”, International Journal of
Modern Physics E 21(03), 1250039.
[8] Phạm Đức
Khuê (2020), “Triển vọng nghiên cứu vật lý hạt nhân và vật lý thiên văn hạt
nhân sử dụng máy gia tốc PELLETRON 5SDH-2”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ
hạt nhân 63, tr. 1-7.
[9] Nguyễn
Quang Hưng, Lê Tấn Phúc và Nguyễn Ngọc Anh (2020), “Nghiên cứu lý thuyết và
thực nghiệm mật độ mức và hàm lực bức xạ của hạt nhân nguyên tử tại Việt Nam”, Tạp
chí Khoa học và Công nghệ hạt nhân 63, tr. 9-15.
[10] Nguyen
Le Anh, Phan Nhut Huan, and Nguyen Hoang Phuc (2021), “Nuclear mean-field
description of proton elastic scattering by 12,13C at low energies”,
Communications in Physics 31(1), pp. 45-56.
[11] Nguyen
Le Anh, Nguyen Hoang Phuc, Dao T. Khoa, Le Hoang Chien, and Nguyen Tri Toan
Phuc (2021), “Folding model approach to the elastic p+12,13C
scattering at low energies and radiative capture 12,13C(p,γ)
reactions”, Nuclear Physics A 1006, 122078.
[12] Nguyen Le Anh and Bui Minh Loc (2021), “Bound-to-continuum potential model for the
(p,γ) reactions of the CNO nucleosynthesis cycle”, Physical Review C
103(3), 035812.
Comments
Post a Comment